-
Cơ cấu dân số theo lao động cho biết nguồn lao động và dân số hoạt động theo
khu vực kinh tế.
a) Nguồn lao động:
-
Nguồn lao động bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi qui định có khả năng tham
gia lao động. Nguồn lao đông được chia làm hai nhóm:
+
Nhóm dân số hoạt động kinh tế bao gồm những người có việc làm ồn định, có làm
việc tạm thời và những người có nhu cầu lao động nhưng chưa có việc làm.
+
Nhóm dân số không hoạt động kinh tế bao gồm học sinh, sinh viên, những người nội
trợ và những người thuộc tình trạng khác không tham gia lao động.
-
Nguồn lao động và lực lượng lao động là những khái niệm có ý nghĩa quan trọng
làm cơ sở cho việc xác định và tính toán cân đối lao động – việc làm trong xã hội.
+
Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo độ tuổi qui định ,
việc qui định cụ thể về độ tuổi lao động là khác nhau giữa các nước.
+
Theo qui định của Luật lao động (1994); độ tuổi lao động đối với nam từ 15 tuổi
đến 60 tuổi và nữ là từ 15 đến 55 tuổi.
-
Lực lượng lao động:
Là
một bộ phận dân số trong độ tuổi lao động thực tế có tham gia lao động và những
người chưa có việc làm nhưng đang tìm kiếm việc làm.
-
Người có việc làm:
Là
những người làm một việc gì đó có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh
toán bằng hiện vật, hoặc những người tham gia vào các hoạt mang tính chất tự tạo
việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình.
-
Lao động thiếu việc làm:
Là
những người được xác định là có việc làm nhưng có thời gian nhưng có thời gian
làm việc thực tế dưới 35 giờ, có nhu cầu và sẵn sàng làm thêm giờ.
-
Người thất nghiệp:
Là
những người đang chưa có việc làm nhưng mong muốn và đang tìm việc làm.
- Công thức tính tỉ lệ thất nghiệp:
- Công thức tính tỉ lệ thất nghiệp:
Tỷ lệ thất nghiệp = 100% x
|
Số người không có việc làm
|
Tổng số lao động xã hội
|
Mẫu số:
Tổng số lao động xã hội = Số người có việc làm + số người không có việc làm
nhưng tích cực tìm việc.
- Nguyên nhân thất nghiệp:
- Nguyên nhân thất nghiệp:
+
Đào tạo kém chất lượng
+
Thiếu việc làm
+
Lực lượng lao động tăng nhanh
+
Thiếu công nhân lành nghề
+
Do cơ cấu ngành nghề không phù hợp
-
Đến thời điểm 1/7/2011, cả nước có 51,4 triệu người thuộc độ tuổi lao động, chiếm
58,5% tồng dân số, bao gồm 50,35 triệu người có việc làm và 1,05 triệu người thất
nghiệp.
-
Năm 2011, cả nước có 15,7 triệu người từ 15 tuổi trở lên không hoạt động kinh tế
. Chiếm 17,9 % tổng dân số. Trong số người từ 15 tuổi trở lên không tham gia hoạt
động kinh tế, nữ nhiều hơn nam (61,3% so với 38,7%). Phần lớn (91,6%) đan số 15
tuổi trở lên không tham gia hoạt động kinh tế chưa được đào tạo chuyên môn kỹ
thuật.
b) Dân
số hoạt động theo khu vực kinh tế:
1. Khu vực I:
- Khu vực
thứ nhất của nền kinh tế (hay lĩnh vực
sản xuất sơ khai) là một bộ phận của nền kinh tế.
- Bao gồm các hoạt động biến đổi tài nguyên thiên nhiên thành sản phẩm sơ khai, sơ khởi. Những sản phẩm này là nguyên liệu cho các ngành kinh tế khác.
- Bao gồm các hoạt động biến đổi tài nguyên thiên nhiên thành sản phẩm sơ khai, sơ khởi. Những sản phẩm này là nguyên liệu cho các ngành kinh tế khác.
-
Các hoạt động kinh tế chủ yếu của lĩnh vực này gồm nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, khai
mỏ, khai
khoáng và
khai thác đá.
- Các ngành công nghiệp chế tạo mà quá trình sản xuất gắn chặt với nguyên liệu thô như
thu gom, bao gói, làm sạch, xử lý ban đầu và đặc biệt là các nguyên liệu này
còn ở dạng thô sơ, chưa sử dụng được hoặc khó chuyên chở đi xa được coi thuộc
về khu vực sản xuất sơ khai.
- Khu vực sản xuất sơ
khai chiếm phần quan trọng trong nền kinh tế các nước đang phát triển.
- Tại các nước phát triển, lĩnh vực sản xuất sơ khai phát triển theo chiều sâu (nâng
cao năng suất và chất lượng sản phẩm), áp dụng khoa
học kỹ
thuật và công
nghệ.
+ Ví dụ:
quá trình cấy hái và trồng tỉa được cơ giới hóa. Ở Hoa
Kỳ, các máy gặt đập liên hợp được sử dụng
để thu hoạch ngũ cốc, máy bay được dùng để rải thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ...
tất cả chứng minh rằng khi nền kinh tế càng phát triển thì tư
bản càng được đầu tư nhiều hơn để
phát triển, mở rộng lĩnh vực sản xuất sơ khai. => Những tiến bộ công nghệ và
đầu tư cho phép khu vực sản xuất này sử dụng ít lực lượng lao động hơn, và vì
thế, ở các nước phát triển, lực lượng lao động trong khụ vực thứ hai của nền kinh tế và khu
vực dịch vụ chiếm tỷ lệ cao
hơn so với khu vực thứ nhất.
Thêm vào đó, các nước
phát triển có khả năng duy trì và phát triển hơn nữa những ngành kinh tế thuộc
lĩnh vực sơ khai nhờ có nguồn của cải dồi dào.
+Ví dụ: Liên minh châu Âu sử dụng trợ cấp nông nghiệp để tạo ra vùng đệm, ngăn
cản biến động tỷ lệ lạm phát và biến động giá cả sản phẩm nông nghiệp. Bằng
cách này, họ có thể xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp với giá rẻ bất thường, dành
lợi thế cạnh tranh trước các nước nghèo và chậm phát triển ở chính thị trường nước họ.
2. Khu vực II:
- Khu vực thứ
hai của nền kinh tế sử dụng những đầu vào là sản phẩm của khu vực thứ nhất để gia công, chế biến thành những sản phẩm hoàn chính
và phù hợp cho người tiêu dùng và các xí nghiệp sử dụng (để gia công, chế biến
nữa).
- Nòng cốt của khu
vực thứ hai là các ngành chế tạo và xây
dựng.
3. Khu vực III:
3. Khu vực III:
- Còn được gọi khu
vực dịch vụ hay công nghiệp dịch vụ.
- Bao gồm các ngành:
Giải trí
Giải trí
Chính
phủ
Du
lịch
Truyền thông đại chúng
Y
tế
Công nghệ thông tin
Dịch vụ tài chính
Tư vấn
Cửa hàng bán lẻ
Bất động sản
Giáo
dục
Cơ cấu lao động
theo khu vực ngành quí I năm 2016:
- Trong thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức hiện nay,
ngành dịch vụ có vai trò ngày càng quan trọng. Xu hướng phát triển của thế giới
hiện nay là dần chuyển sang phát triển.
- Kinh tế thế giới
đang chuyển đổi sang nền kinh tế dịch vụ. Ngày nay, cả thế giới đang bước sang
một nền kinh tế mới: nền kinh tế dịch vụ.
- Ngành dịch vụ hiện
đóng góp 60% GDP của thế giới. Ở các nước phát triển, tỷ trọng này lên đến 70%
(OECD, 2000). GDP của lĩnh vực dịch vụ chiếm tới 90% GDP của Hồng Kông, 80% GDP
của Mỹ, 74% GDP của Nhật Bản, 73% GDP
của Pháp, 73% GDP của Anh và 71% GDP của Canađa. Dịch vụ đóng góp trên 50% GDP
của các nền kinh tế Mỹ La Tinh như Braxin, trên 60% GDP của các nước công
nghiệp hóa mới ở châu Á như Xingapo, Đài Loan và Malaixia. Dịch vụ cũng chiếm
tới 48% GDP của Ấn Độ và 40% GDP của Trung Quốc.
(Lovelock và Wirtz, 2007, trích từ World
FactBook, 2007 và EIU Country Data).
-
Trong giai đoạn 1988 – 2003, đóng góp của ngành dịch vụ cho giá trị gia tăng
của toàn nền kinh tế tăng từ 60% lên 68%, còn đóng góp của ngành công nghiệp
lại giảm từ 34% xuống còn 29%.
-
Sự thay đổi này thể hiện việc giá cả của các sản phẩm công nghiệp giảm tương
đối so với giá cả của các sản phẩm dịch vụ và ngươi tiêu dùng ngày càng chi
tiêu thêm cho dịch vụ nhiều hơn cho hàng hóa.
- Dịch vụ đã trở thành ngành sản xuất
lớn nhất của thế giới hiện nay.
- Lao động trong ngành dịch vụ chiếm từ 60% đến 75% tổng số lao động ở nhiều
nước phát triển.
- Sản xuất xã hội phát triển sẽ thúc
đẩy mạnh mẽ sự xâm nhập lẫn nhau giữa lĩnh vực kinh doanh hàng hoá và dịch vụ
- Ví dụ:
+ Các công ty bán hàng hoá sử dụng các
dịch vụ bổ sung thêm như một vũ khí cạnh tranh.
+ Các nhà cung cấp dịch vụ lại tích cực
sử dụng các hàng hoá kèm theo hỗ trợ cho quá trình cung cấp dịch vụ.
+ Ở Australia số lao động trong các ngành dịch vụ chiếm tới
75% tổng số lao động cả nước, mang lại 50% GDP. Ngành DV du lịch là ngành
kinh tế số một của Australia.
- Người ta ước tính khoảng từ 30% đến
50% chi phí của hộ gia đình là giành chi tiêu cho mua dịch vụ.
- Đặc biệt, hiện nay Ấn Độ được xem là
quốc gia đã bỏ qua giai đoạn phát triển công nghiệp để bước sang giai đoạn phát
triển dịch vụ.
- Tại Việt Nam, lĩnh vực dịch vụ cũng
đang phát triển nhanh chóng cùng với chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế
của Nhà nước trong giai đoạn đổi mới. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP sẽ ngày càng
tăng. Vai trò của dịch vụ ngày càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế
quốc gia.
- Trong kỷ nguyên "Kinh tế tri
thức" thì lĩnh vực dịch vụ thông tin càng đóng vai trò quan trọng.
- Sự hội tụ giữa Tin học, Viễn thông,
Bưu chính, Truyền thông đang tạo ra rất nhiều dịch vụ mới mang lại tiện nghi
cho xã hội, tiết kiệm chi phí cho xã hội (chi phí sản xuất, học tập, giải trí,
giao dịch, trao đổi..). Đặc biệt, các dịch vụ thông tin liên lạc hiện đại sẽ là
trợ thủ đắc lực giúp cho các nước đang phát triển cạnh tranh và hội nhập nhanh
chóng với thế giới.
Biểu đồ tăng trưởng của ngành dịch vụ của
nước ta từ 2012 đến 2016.
Cơ cấu kinh tế của nước ta từ 1990 đến 2005.
- Tỉ trọng khu vực I (nông-lâm-ngư nghiệp) có xu hướng giảm
nhanh ( từ 38,7% năm 1990 xuống còn 20,9% năm 2005).
- Tỉ trọng khu vực II (công nghiệp-xây dựng ) có xu hướng
tăng nhanh (từ 22,7% năm 1990 lên 41,0% năm 2005).
- Tỉ trọng khu vực III ( dịch vụ ) đang có sự biến động mạnh
tăng nhanh từ năm 1991 đến năm 1995, sau đó giảm nhẹ năm 2005, nhưng so với thời
kì trước thì có chuyển biến tích cực.
=> Cho thấy trong
khoản thời gian gần đây nước ta đang thay đổi cơ cấu kinh tế từ khu vực I (
nông – lâm – ngư nghiệp ) thành khu vực II (công nghiệp – xây dựng).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét